Đồng chí Lê Hồng Phong - Tấm gương người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhân dân ta
Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 tại xã Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nông dân.
Sau khi học hết bậc Sơ học yếu lược, cuối năm 1923, Lê Hồng Phong bí mật sang Xiêm (Thái Lan) gặp các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1924, sang Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm Tâm xã và sau đó gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng.
Năm 1925, đồng chí Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cuối năm 1934, đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu Đoàn đại biểu của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (Liên Xô). Tại Đại hội, Đảng ta được công nhận là Chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ I của Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Tháng 7/1936, tại Thượng Hải (Trung Quốc), đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ I.
Đồng chí Lê Hồng Phong. |
Tháng 11/1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước và bí mật hoạt động tại Sài Gòn, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng trong tình hình mới. Tháng 3/1938, đồng chí tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng góp phần vào việc thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương đấu tranh chống phát xít, chống hoạt động phá hoại của bọn tờrốtkít.
Ngày 22/6/1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn, kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc. Ngày 23/12/1939, chúng đưa đồng chí về quản thúc tại Nghệ An. Ngày 20/1/1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam tại Khám Lớn (Sài Gòn), cuối năm 1940, chúng đẩy đồng chí ra Côn Đảo. Trước sự tra tấn độc ác, dã man của kẻ thù, đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, tích cực vận động và chỉ đạo anh em trong tù đấu tranh chống địch. Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và bệnh tật, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 6/9/1942.
Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1924, từ Xiêm, đồng chí Lê Hồng Phong đến Quảng Châu (Trung Quốc) và gia nhập Tâm Tâm xã. Tại đây, đồng chí lần đầu tiên được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; sự gặp gỡ này đã mở ra bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người thanh niên xứ Nghệ. Lê Hồng Phong đã tiếp thu được những quan điểm mới về con đường cứu nước và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng sớm thấy nhận thấy những phẩm chất cách mạng ưu tú, tài năng của Lê Hồng Phong.
Tháng 2/1925, Lê Hồng Phong cùng một số thanh niên yêu nước được lựa chọn vào Nhóm Việt Nam Thanh niên Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc thành lập và trở thành hạt nhân của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi đồng chí vào những cơ sở đào tạo cán bộ cao cấp của Chính phủ Trung Hoa và trường đào tạo lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô.
Trong suốt thời gian đồng chí Lê Hồng Phong đi học tập, đào tạo ở Liên Xô, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thường xuyên liên lạc thông qua đường dây của Quốc tế Cộng sản. Điều đó thể hiện sự theo dõi, quan tâm đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc đối với Lê Hồng Phong. Không phụ lòng của người thầy dẫn dắt, đồng chí Lê Hồng Phong đã từng bước trưởng thành cả về nhận thức lý luận và năng lực lãnh đạo.
Đồng chí Lê Hồng Phong - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) thất bại, phong trào cách mạng Việt Nam vào giai đoạn vô cùng khó khăn. Hàng ngàn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắn giết hoặc tù đày, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng bị bắt ở Hồng Kông.
Cuối năm 1931, đồng chí Lê Hồng Phong nhận trọng trách từ Quốc tế Cộng sản trở về nước chỉ đạo việc tổ chức khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng, tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Với sự giúp đỡ của chi bộ Đảng do đồng chí Hoàng Đình Giong làm Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong về Long Châu (một thị trấn nhỏ sát biên giới Việt - Trung). Tại đây, đồng chí liên tục mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ trong nước sang học tập. Những cán bộ sau khi được đào tạo, ngay lập tức được đưa về nước hoạt động, nhờ vậy các tổ chức Đảng trong nước được khôi phục
Cuối năm 1932, Ban lãnh đạo lâm thời của Đảng được thành lập và thống nhất chủ trương tuyên truyền, học tập, hành động theo nội dung của bản kế hoạch “Chương trình hành động của Đảng” do Lê Hồng Phong soạn thảo. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lúc cách mạng Việt Nam bị khủng bố, Đảng đang gặp thoái trào, những tư tưởng dao động, cơ hội đang thừa cơ trỗi dậy.
Từ ngày 25/7 - 21/8/1935, đồng chí Lê Hồng Phong cùng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đến Mátxcơva tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Trong tham luận báo cáo tại Đại hội, đồng chí đã nêu bật những thành tích to lớn, khuyết điểm, kinh nghiệm mà Đảng đã thu hoạch được trong những năm chiến đấu gian khổ nhưng vô cùng anh dũng. Những đóng góp của đồng chí thể hiện trong các luận điểm của tham luận đã được Đại hội đánh giá cao, qua đó chính thức công nhận Đảng ta là một bộ phận thuộc Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu là Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản.
Ngay sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, đồng chí đã triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 26/7/1936 tại Thượng Hải (Trung Quốc), chỉ đạo Hội nghị tập trung vào việc nghiên cứu quán triệt các nghị quyết mới của Quốc tế Cộng sản, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế để điều chỉnh chiến lược, sách lược cho phù hợp với tình hình hiện tại.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 3/1938, đồng chí Lê Hồng Phong tiếp tục tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh Nam Kỳ và có nhiều đóng góp trên mặt trận báo chí nhằm thống nhất các quan điểm của Đảng về đấu tranh dân chủ.
Tấm gương người cộng sản kiên cường, trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân
Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Biết đồng chí là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, bọn mật thám Pháp dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ nhưng chúng vẫn không lay chuyển được ý chí kiên cường của đồng chí. Ngày 30/6/1939, đồng chí bị kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc ở Nghệ An. Mặc dù bị theo dõi chặt chẽ nhưng đồng chí vẫn bí mật liên hệ với tổ chức Đảng và dành thời gian viết bài, gửi cho các tờ báo của Đảng, thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường của người cách mạng kiên trung.
Khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, tháng 1/1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt lần thứ hai và áp giải vào giam giữ tại Khám lớn Sài Gòn. Trong thời gian gần 1 năm giam giữ, tra tấn, hành hạ thực dân Pháp vẫn không tìm được lý do để kết tội tử hình đối với đồng chí. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn buộc tội đồng chí phải “chịu trách nhiệm tinh thần” cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc. Cuối năm 1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị đày ra Côn Đảo.
Những trận đòn thù tàn ác, dã man, liên tục làm đồng chí Lê Hồng Phong dần dần kiệt sức. Đồng chí đã vĩnh biệt anh em, đồng chí của mình vào trưa ngày 6/9/1942. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn dặn: "Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng".
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong diễn ra vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế; tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết về xây dựng Đảng, như: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Đây là dịp để chúng ta thành kính và tri ân công lao, đóng góp to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, nhân dân. Qua đó củng cố và bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo Tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương