Cập nhật lúc: 07/02/2022

Đầu năm đi lễ chùa Khải Đoan

Chùa Khải Đoan (Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) là một công trình rất đặc biệt, bởi đây là ngôi chùa đầu tiên của tổ chức Phật giáo trong thời kỳ Chấn hưng Phật giáo Việt Nam ở Tây Nguyên, cũng là ngôi chùa cuối cùng được phong Sắc tứ ở Việt Nam.
 
Chùa Khải Đoan, tên chữ là “Sắc tứ Khải Đoan tự” nằm ở phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đây là ngôi chùa Phật giáo lớn nhất thành phố và là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Tây Nguyên. Tam quan mang tính nghi lễ của chùa quay ra đường Quang Trung, nhưng lối đi chính thường xuyên lại ở phía sau chùa nằm trên đường Phan Bội Châu. Chùa hướng mặt Tây Nam, nhìn xuống suối Đốc Học, lưng dựa vào khu phố; đây là thế “tiền thủy hậu sơn” theo quan niệm phong thủy truyền thống của kiến trúc cổ Việt Nam.
Chùa tọa lạc trên một diện tích rộng khoảng 4 ha, hài hòa cùng cảnh quan thiên nhiên và cây xanh. Trong đó có nhiều hạng mục như tam quan, chính điện, nhà giảng kinh, nhà Tổ… Công trình được Đoan Huy Hoàng Thái Hậu Hoàng Thị Cúc (chính phi của vua Khải Định, thân mẫu vua Bảo Đại) cho khởi dựng năm 1951 trên khu đất do bà hiến cúng. Cũng chính Đoan Huy Hoàng Thái Hậu hỷ cúng phần lớn kinh phí xây dựng chùa, thêm vào đó là sự đóng góp các Phật tử và bá tánh thập phương. 
Năm 1953, nhân ngày lễ an vị lạc thành nhà Hậu Tổ, chùa được sắc phong là “Sắc tứ Khải Đoan” – đời vua Bảo Đại. “Khải Đoan” là 2 chữ  đầu của vua Khải Định và Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, mang ý nghĩa ghi nhận công đức người sáng lập ngôi chùa. Cần phải nói thêm về điều này một chút, là ở thời điểm đó (năm 1953), mặc dù triều Nguyễn đã kết thúc, nhưng Bảo Đại vẫn là Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam (miền Nam) và với định chế Hoàng triều Cương thổ ở Cao nguyên Trung Phần (Tây Nguyên) thì Bảo Đại vẫn là Hoàng đế của vùng đất này. Và đây là Sắc tứ cuối cùng của một vị vua Việt Nam ban cho một ngôi chùa Phật giáo.
Chính điện là công trình lớn nhất và là điểm nhấn kiến trúc của chùa Khải Đoan, có diện tích xây dựng 320m2. Công trình có hai tầng, tầng dưới được xây bằng vật liệu gạch,  đá – là nơi học tập, sinh hoạt của sư tăng; tầng trên bằng gỗ là nơi thờ. Về tổng thế, công trình có dáng dấp của nhà dài Ê Đê ở Tây Nguyên với bộ mái 2 tầng, nhưng cấu trúc lại theo kiểu nhà rường của Huế. Chính giữa phía trước chính điện có một sảnh được xây bằng đá với cầu thang 2 bên.
Phía trên sảnh là tượng Phật Thích Ca bằng đá trắng.
Cầu thang bằng đá dẫn lên điện thờ trên tầng 2. Các cấu kiện đá được tạo tác rất tỉ mỉ, công phu.
Xung quanh điện thờ là hành lang rộng. Vách và cửa gỗ được chạm trổ công phu, đầy thẩm mỹ các hình ảnh Đức Phật, La Hán, Bồ Tát và những hoa văn mang màu sắc Phật giáo.
Nội thất điện thờ rộng và cao với nhiều ô cửa thông thoáng. Đặc biệt ở đây sử dụng cấu trúc “Trùng thiềm điệp ốc” tức là hai nếp nhà với hai hệ mái nối liền với nhau, để tăng diện tích và mở rộng không gian. Đây là một kiểu kiến trúc đặc trưng của cung đình Huế.
Điện thờ Phật có 5 gian, được bài trí tôn nghiêm. Ở giữa tôn trí tượng đức Phật A Di Đà và đức Phật Thích Ca, hai phía là tượng bốn vị Bồ Tát: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù và Phổ Hiền. Các pho tượng đều được đúc bằng đồng, đặt trên bệ thờ bằng gỗ quý.
Hai bên tả - hữu chính điện có lầu trống và lầu chuông. Bên hữu (phải) là lầu chuông có treo quả đại hồng chung (chuông đồng). Chuông có kích thước: cao 1,15 mét, chu vi đáy 2,7 mét, nặng 380 kg do các nghệ nhân phường đúc đồng ở phía Tây Kinh thành Huế hoàn thành vào tháng 1/1954. Đây là bảo vật hiến cúng của Hoàng tử Bảo Long và Bảo Thăng (con vua Bảo Đại).
Cũng ở bên hữu chính điện có tòa nhà “Tàng kinh các”. Đây là một công trình 2 tầng hoàn toàn bằng gỗ với hai tầng mái rất đẹp. Tầng 1 công trình để trống, là nơi nghỉ ngơi, thư giãn…
Tầng 2 là thư viện kinh sách được lưu trữ rất khoa học, cẩn thận.
Phía sau chính điện là nhà Hậu Tổ. Công trình cũng có cấu trúc giống chính điện với tầng 1 được xây bằng gạch, đá; tầng 2 bằng gỗ và phía trước có một sảnh; nhưng với kiến trúc và trang trí đơn giản hơn. 
Điện thờ nhà Hậu Tổ đặt trên tầng 2. Nội thất bằng gỗ cũng kiểu nhà rường ở Huế. Ở gian giữa, phía trước đặt ban thờ và tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, phía sau là ban thờ và di ảnh của các hòa thượng trụ trì chùa, cũng như những cao tăng đã có nhiều đóng góp với Phật giáo ở Tây Nguyên. 
Phía trước điện thờ nhà Hậu Tổ, trên mái sảnh là tượng Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử, được tạc bằng đá trắng.
Các bộ phận kiến trúc công trình trong chùa Khải Đoan đều được xây dựng, trang trí công phu, tỉ mỉ, giàu tính dân tộc, có giá trị thẩm mỹ cao.
Trong khuôn viên chùa còn có một số hạng mục khác như cây Bồ Đề là tặng vật lưu niệm của Đại đức Narada tặng chùa Khải Đoan năm 1962, dưới cây có tượng Phật Thích Ca tọa thiền hay Công Đức Tạng là nơi tưởng niệm công đức tiền bối qua các thời kỳ, từ sơ khởi xây dựng cho đến đời thứ 6 trụ trì. Trong ảnh là Quan Âm Các xây dựng năm 1972, là công trình kiến trúc độc đáo, có mặt bằng hình lục giác với 6 cây cột trang trí họa văn rồng mây, trong có tượng Đức Quan Âm, là sản phẩm mỹ nghệ do các thợ Huế thực hiện. 
Chùa Khải Đoan được coi là cái nôi, là trung tâm lớn của Phật giáo của Đắk Lắk và Tây Nguyên, vì thế còn được gọi là Chùa Lớn hay Chùa Tỉnh. Chùa cũng là trụ sở của Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đắk Lắk kể từ khi thành lập vào năm 1986. Với lịch sử đặc biệt và kiến trúc độc đáo, đây là một thắng cảnh, một địa chỉ không thể bỏ qua đối với Phật tử và du khách khi đến với thành phố cao nguyên Buôn Ma Thuột./.
In Gửi Email